
Tàu biển Thống Nhất chạy tuyến Sài Gòn - Hải Phòng - Ảnh: Congnghieptauthuyvn
Tàu chở hàng mang tên Trường Xuân là chiếc cuối cùng rời cảng Sài Gòn với 3.000 người trưa 30-4-1975.
Chuyến tàu biển Thống Nhất Bắc - Nam
Không đầy hai tuần sau, ngày 13-5-1975 chiếc tàu Sông Hương có trọng tải 10.000 tấn đã chở 541 cán bộ miền Nam được trung ương cử về bổ sung lực lượng tiếp quản đã cập cảng Sài Gòn. Đó là ngày lịch sử chính thức thông tuyến tàu vận tải Bắc - Nam.
Kể lại hành trình trở về lịch sử trên con tàu mang tên Sông Hương, ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên thuyền phó thứ nhất tàu Sông Hương, chỉ tay về phía cầu cảng bến Nhà Rồng, nơi tàu Sông Hương cập bến. Với ông, đó là chuyến tàu biển đáng nhớ nhất.
"Tôi nhớ mãi hình ảnh bà má miền Nam chống gậy cứ khóc khi được lên tham quan tàu. Tàu Sông Hương được bà con gọi là "tàu ở ngoài Bắc vô", những thuyền viên trên tàu được gọi là "người của Cụ Hồ".
Không khí ngày hôm đó rất xúc động. Có quá nhiều nước mắt và nụ cười trong ngày trở về" - ông Hà tâm sự. Tàu Sông Hương đã đi vào lịch sử là chuyến tàu đầu tiên nối liền hai miền Nam - Bắc.
Đặc biệt cũng có dấu ấn kỷ niệm không thể quên trong lịch sử ngành vận tải biển Việt Nam về con tàu mang tên Thống Nhất.
Sau ngày miền Nam hòa bình, hệ thống đường bộ bị ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh và sự thiếu thốn phương tiện, nhiên liệu xăng dầu đã không thể đáp ứng được nhu cầu đi lại rất lớn của nhân dân hai miền.
Vì vậy, ngay năm 1975 được Chính phủ cho phép, Cục Vận tải Bộ GTVT đã cử đoàn sang Na Uy đàm phán mua tàu mang tên Kronprins Harald (Hoàng tử Harald, được hạ thủy tháng 4-1961 tại Cộng hòa liên bang Đức).
Tàu Thống Nhất có tải trọng trên 10.000 tấn, chuyên chở khoảng 1.000 hành khách và hàng hóa, mỗi tháng bình quân chạy ba chuyến Bắc - Nam, mỗi chuyến từ cảng Sài Gòn ra Hải Phòng mất ba ngày ba đêm.
Cuối tháng 5-1982, nhân dịp ra làm việc tại báo Nhân Dân ở Hà Nội, đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi đi trên chiếc tàu biển Thống Nhất này. Chúng tôi vẫn nhớ mãi khi vừa bước lên tầng 1 con tàu là mồ hôi tứa ra ướt cả áo.
"Tàu Thống Nhất từ châu Âu nhập về được thiết kế cho hành khách ở xứ lạnh, không phù hợp với thời tiết nhiệt đới. Vì vậy ai vừa bước vào bên trong con tàu đều vã mồ hôi" - anh Tuấn là dân buôn thường xuyên trên con tàu này cho biết.
Bên trong phòng ngủ có giường đệm, quạt máy nhưng không khi oi bức nên không ít hành khách xuống nằm ở sàn tàu.
Chúng tôi ghi nhận phần lớn khách là người đi buôn hàng hóa trong Nam ra Bắc, chỉ số ít người trong Nam ra thăm bà con ở các tỉnh phía Bắc và một số đoàn cán bộ ra làm việc ở Hải Phòng.
Trả lời câu hỏi của chúng tôi vì sao chọn đi tàu biển Thống Nhất, một nhân viên đoàn cán bộ từ Sài Gòn ra Hải Phòng cho biết: "Đi tàu biển có lợi hơn đi xe lửa Sài Gòn - Hà Nội vì sẽ không tốn thêm tiền vé và không mất thêm thời gian đi từ Hà Nội ra Hải Phòng".
Tuy nhiên nhiều người cho biết đi tàu biển Thống Nhất lại không thuận lợi cho hành khách muốn đi Nha Trang, Huế... vì tàu chỉ chạy một mạch từ TP.HCM đến Hải Phòng, không cập bến cảng nào khác.
Và trong chuyến đi này chúng tôi ghi nhận khi tàu còn cách cầu cảng Hải Phòng khoảng 100m có rất nhiều người ở trên bờ vẫy tay chào đón người thân trên tàu.
Thế nhưng con tàu không thể cập bến vì nước sông cạn nên buộc tàu phải neo đậu ở giữa sông. Hàng trăm hành khách trên tàu mệt mỏi vì phải chờ 3-4 giờ sau nước sông dâng lên tàu mới cặp vào bến cảng.
Từ năm 1988, kinh tế đất nước chuyển mình ngành vận tải đường sắt, đường bộ, hàng không phát triển, đáp ứng nhu cầu đi lại, trong khi tàu Thống Nhất kinh doanh không có lãi.
Đến năm 1991, Công ty Vận tải biển Việt Nam (VOSCO) đã quyết định bán lại con tàu Thống Nhất cho Công ty Oriental Glory Maritime Co. Ltd (Valleta Malta).

Công nhân cảng bốc xếp gạo - Ảnh: cảng Sài Gòn
Bốc xếp tàu chở gạo nhanh nhất
Trong bài phóng sự "Câu chuyện hạt gạo và nỗi nhục nước nghèo" đăng Tuổi Trẻ ngày 22-11-2012, anh Lê Văn Nuôi - nguyên Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ - viết: Năm 1979 - Sài Gòn chỉ với dân số 3,5 triệu người và là thành phố từng được mệnh danh là "hòn ngọc Viễn Đông" nhưng lần đầu tiên rơi vào tình trạng thiếu đói gay gắt, bữa ăn của người dân phải độn bo bo, bột mì, khoai mì, khoai lang đến 70%, 80%. Dù có tiền thì người dân Sài Gòn cũng không có gạo mà mua.
Hoàn cảnh lúc đó Nhà nước cũng thiếu ngoại tệ để mua lương thực. Vì vậy có nước viện trợ 10.000 tấn gạo, cấp thẩm quyền cử tàu từ cảng Sài Gòn đi lấy gạo ngay, đồng thời nhờ một nước Đông Nam Á cho đổi số gạo viện trợ là loại hạt dài để lấy 15.000 tấn gạo tấm.
Điều may mắn là lãnh đạo nước này có thiện cảm và thông cảm những khó khăn của Việt Nam nên chấp nhận việc đổi gạo dù e ngại lệnh cấm vận của Mỹ.
Việc đem gạo ngon đi đổi gạo có chất lượng thấp hơn để đem về dùng là chưa có tiền lệ vì chưa có nước nào làm như thế.
Nước bạn yêu cầu khi đổi gạo phía Việt Nam phải chịu chi phí xếp dỡ từ tàu lên bờ và từ bờ xuống tàu. Tính ra chi phí này không nhiều so với chi phí bỏ ra mua thêm 5.000 tấn gạo tấm - một cán bộ tâm sự.
Đạt được thỏa thuận đổi gạo, cấp trên điện ngay cho thuyền trưởng tàu đang trên đường chở gạo viện trợ về nước, yêu cầu chuyển hướng con tàu đến nước cho đổi gạo, giúp giảm thêm chi phí xăng dầu, tiền công xếp dỡ.
Thời đó nhiều công nhân tâm sự: Ai cũng đói, nhà nhà đói, mọi người đang đói vì thiếu gạo. Cụm từ đó như khắc sâu tâm trí công nhân cảng. Vì vậy khi biết có tàu chở gạo cập cảng, công nhân rất vui bốc xếp tàu gạo rất nhanh.
Bởi vì ai cũng hiểu gia đình mình đang rất cần gạo, cũng như hàng triệu gia đình ở các thôn xóm, phường xã đang xếp hàng để có gạo ăn. Chỉ với các tàu chở gạo là được bốc xếp nhanh nhất - một cán bộ cảng cho biết.
Không chỉ thiếu gạo, thời đó còn thiếu hụt xăng dầu để nhà máy phát điện. Nhà đèn Chợ Quán là nhà máy điện lớn nhất Sài Gòn chỉ tập trung cấp điện cho các nhà máy, xí nghiệp sản xuất.
Còn điện dùng cho sinh hoạt và kinh doanh phải chịu cảnh một tuần cúp điện 2-3 ngày. Thế nhưng những ngày được cấp điện nhà cũng chập chờn lúc có lúc không. Để tiết kiệm điện, cảng Sài Gòn sử dụng tối đa công nhân xếp dỡ hàng thay vì dùng thiết bị xài điện bốc xếp và tập trung bốc dỡ hàng vào ban ngày thay vì làm ban đêm tốn điện.
Đại hội đảng bộ cảng Sài gòn năm 1980 đã quyết định chọn ngày 5-6 hằng năm - ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở bến Nhà Rồng - là ngày truyền thống công nhân cảng Sài Gòn.
Sự kiện này như tiếp thêm nguồn năng lượng để công nhân bốc xếp cảng vượt qua những năm tháng khó khăn của thời bao cấp. Đến năm 1986, sản lượng thông qua cảng Sài Gòn đạt 2,3 triệu tấn, cao hơn năm 1976 chỉ đạt 1,1 triệu tấn.
Việc lấy sức người "tăng gia sản xuất" ở cảng đã đẩy nhanh bốc xếp hàng hóa và nhanh giải phóng tàu hàng xuất bến, vừa tránh bị chủ tàu phạt mà còn được chủ tàu thưởng.
Từ năm 1989, cảng Sài Gòn đã vận dụng thực hiện linh hoạt sáng tạo và đạt hiệu quả to lớn, trên cơ sở giải quyết hai yếu tố cơ bản là nâng cao mức độ cơ giới hóa và đời sống người lao động.
Nhờ đó đã đưa cảng Sài Gòn từ một bến cảng trì trệ thời hậu chiến trở thành một bến cảng Anh hùng vào năm 1996.
Trở về quê hương trên chiếc tàu Thống Nhất
Nhiều năm đã trôi qua, đại tá Nguyễn Văn Lâm - nguyên sĩ quan phái đoàn quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ở trại Davis, Sài Gòn trước năm 1975 - vẫn nhớ ông đã đưa các con từ miền Bắc trở lại quê hương miền Nam trên chiếc tàu Thống Nhất.
"Biển động, các con bị say sóng. Trên tàu có nấu cháo cho người bị mệt ăn giữ sức. Tôi cũng mệt nhưng không ngủ được, cứ ngồi dõi mắt nhìn bờ biển mờ mờ của quê hương mình. Lúc cập cảng Sài Gòn, tôi đã không kìm được nước mắt.
Ngày rời quê hương tập kết ra Bắc năm 1954, chúng tôi nghe chỉ 2, 3 năm sẽ trở về, không ngờ biền biệt suốt 21 năm" - ông Lâm xúc động kể.
-----------------------------
Tháng 4-1975, chiếc tàu kéo CSG 240 của cảng Sài Gòn đang làm việc ở cảng Sitahip, Thái Lan. Đội ngũ thuyền viên trên tàu đã đấu tranh quyết liệt suốt hai tháng để đưa được con tàu này trở về Việt Nam.
>>> Kỳ tới: Cảng biển anh hùng
Link nội dung: https://phapluatcongdan.vn/165-nam-thuong-cang-sai-gon-ky-2-nhung-chuyen-tau-lich-su-a36222.html